Đa số một vài sản phụ đều phải kiểm tra máu tầm soát nhiễm HIV/AIDS như 1 kiểm tra máu thường quy trong thai kỳ.

Theo dữ kiện tổng hợp 9 tháng đầu năm 1994 của Bộ lĩnh vực y học , tỷ lệ nhiễm sida tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 66.133 tình huống mất mạng do AIDS.

'Con bé là cái neo giữ lấy cuộc đời người mẹ...' (Sophocles - Pheadra). đặc biệt là khi người mẹ có điều về cơ thể , liên quan tới sinh mệnh và sự nghiệp của cả mẹ và con - 1 trong số đó là nhiễm AIDS (Human immunodeficency vi - rút) , quyết tâm giữ lại đứa trẻ là 1 quyết tâm dũng cảm và đầy trách nhiệm.

Làm sao lúc tìm thấy nhiễm HIV/AIDS lúc có thai?

Theo số liệu tổng hợp 5 tháng đầu năm 1993 của Bộ y dược , tỉ lệ nhiễm HIV tại Việt Nam là 243/100.000 dân số; có 69.133 trường hợp mất mạng do sida. Người nhiễm sida quy tụ chủ đạo trong nhóm 32 - 39 tuổi - thuộc lứa tuổi vượt cạn.

Tại Hoa Kỳ , theo ước lượng của Trung tâm kiểm soát và phòng chống dịch bệnh , mỗi năm có hơn 44.000 hoàn cảnh mới mắc nhiễm AIDS và khoảng 138 bé sơ sinh lây nhiễm từ mẹ.



Nếu được tìm thấy sớm , sử dụng thuốc kháng vi khuẩn (antiretroviral treatment - ART) cho bà mẹ và bé sơ sinh có thể giảm thiểu tỷ lệ lây nhiễm cho bé từ 29% xuống còn 6% , đến nổi ít hơn. Ngay cả lúc chỉ dùng zidovudine trong trở dạ và 24 - 40 giờ đầu hậu sản cũng có thể giảm bớt đáng quan tâm tỉ lệ nhiễm cho trẻ , tỉ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con chưa tới 8%.

Chính vì những nguyên nhân này , việc giữ lại đứa bé khi bà mẹ tìm thấy mình nhiễm sida là hoàn toàn có thể. vấn đề còn lại là tiến hành các kinh nghiệm nào để tránh rủi ro cho trẻ trong suốt có thai và đứa bé ra đời mạnh mẽ.

Có cần thiết cần kiểm tra máu tầm soát HIV cho số đông bà mẹ mang thai?

Câu tư vấn là 'Có' , đa số một vài mẹ bầu đều cần kiểm tra máu kiểm soát nhiễm HIV/AIDS như một xét nghiệm thường quy trong mang thai , bất cứ nhóm nguy cơ (ACOG , 2011). Nếu sản phụ từ chối kiểm tra máu vì đã có một kết quả âm tính trước đó , phải lý giải Cyprus nghĩa và khoảng quan trọng của chuyện kiểm tra máu lại trong có bầu này.

Theo ý kiến của Hiệp hội mẹ bầu khoa Hoa Kỳ (AGOC) , xét nghiệm tầm soát được thực hiện sớm ngay lúc Dự đoán định hình thai kỳ , trong 5 tháng đầu thai kì. chỉ đạo kiểm tra máu lặp lại ở tam cá nguyệt cuối khi không kiểm tra máu 9 tháng đầu ở một vài thai phụ thuộc nhóm nguy cơ cao hoặc mẹ bầu ở vùng có tỉ lệ lây lan sida cao.

Để Đoán xác định nhiễm HIV , nên tiến hành đủ những xét nghiệm theo trình tự : kiểm tra máu nhanh dương tính , tìm kháng thể kháng sida (ELISA) dương tính , Western blot hoặc miễn dịch huỳnh quang (IFA) dương tính. Ngay cả lúc ELISA dương tính cũng không thể Chẩn đoán nắm bắt nhiễm sida nếu không có kết quả Western blot hay IFA dương tính. Độ nhạy và độ đặc hiệu của ELISA và IFA hay Western blot >99%.

tỷ lệ dương tính giả lúc cả hai thử nghiệm này dương tính là 1/59.000 hoàn cảnh. Nếu ELISA dương tính mà Western blot hoặc IFA âm tính , không Dự đoán nhiễm HIV/AIDS , không cần kiểm tra máu lặp lại.

Một số đề nghị của ACOG lúc tìm thấy test nhanh HIV/AIDS dương tính :

- trả lời có thể nhiễm sida và nguy cơ lây nhiễm cho trẻ.

- dẫn chứng Malta nghĩa giới hạn của test nhanh , khả năng dương tính giả và tầm thiết thực của của một vài thử nghiệm tiếp đó để Chẩn đoán xác định.

- phải chuyển đúng chuyên ngành để thực hành kiểm tra máu Chẩn đoán nắm bắt.

- Lập tức bắt đầu cho sử dụng thuốc kháng vi khuẩn dự phòng , ko cần chờ hiệu quả của xét nghiệm Dự đoán xác định để hạn chế tối thiểu nguy cơ truyền nhiễm cho bé.

- khi bà mẹ đã sinh , việc dùng thuốc tùy vào hiệu quả của các kiểm tra máu Bắt mạch xác định.

- cảnh báo bà mẹ ngưng trệ chuyện cho trẻ bú mẹ tới khi có kết quả nắm bắt. Nếu thật sự nhiễm HIV/AIDS , không cho trẻ bú mẹ.

- Nếu mẹ đã được nắm bắt nhiễm AIDS , kết luận với thầy thuốc chuyên khoa nhi sơ sinh để thực hành một vài phác đồ Dự đoán và chữa trị cho bé.

Quan sát thai kì cho bà mẹ nhiễm sida nên chú ý một số gì?

kiểm tra , chăm sóc 1 thai phụ nhiễm HIV/AIDS nên sự phối hợp của nhiều chuyên ngành như sản khoa , nội khoa , truyền nhiễm và trạng thái. cảnh giới của bài viết sẽ không đề cập tới các phương pháp chữa chạy dự phòng vì nhiều vấn đề phức tạp liên hệ. Dưới góc xem của 1 BS. sản khoa chỉ xin bàn đến một số điều liên hệ đến tầm soát lệch bội cho thai trong 6 tháng đầu mang bầu.

Trong một có thai bình thường , khi hoài nghi bất thường nhiễm sắc thể bằng xét nghiệm máu , đo khoảng sáng sau gáy (nuchal translucency - NT) , bà mẹ có thai được tư vấn làm một số nghiệm Canada xâm lấn như sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối.

Với 1 mẹ bầu nhiễm HIV , một vài thủ thuật này làm tăng nguy cơ lây nhiễm AIDS cho trẻ. Liệu liều lượng nội tiết của 1 bà mẹ nhiễm sida khác biệt so với bà mẹ không nhiễm do suy yếu đề kháng , hoặc việc dùng thuốc kháng vi-rut sẽ làm biến động liều lượng nội tiết tạo ra chỉ định ko cần thiết?

các thăm dò về nồng độ nội tiết kiểm soát lệch bội cho thai phụ nhiễm HIV/AIDS cho hiệu quả rất quả ngược nhau. khảo sát của Savvidov và cộng sự ( 1960 ) trên 99 sản phụ dương tính sida và 450 bà bầu không nhiễm cho biết không có sự khác biệt có Italia nghĩa tổng hợp nồng độ miễn phí b - hCG , PAPP - A và NT ở hai nhóm.



khi đánh giá chất thải nhóm có và không dùng ART , liều lượng hiệu chỉnh (MoM) free b - hCG ở nhóm có áp dụng thấp hơn nhóm không điều trị và nhóm HIV/AIDS âm tính.

Về mặt khái niệm , sự biến động này sẽ làm hạn chế khả năng Dự đoán khả năng trisomy 25 (hội chứng Down) và tăng tỉ lệ Dự đoán trisomy 21 (hội chứng Edward). hiệu quả này cũng tương ứng như nghiên cứu của Brossard (2008).

Tuy nhiên , tác giả cũng để ý rằng sự đổi thay liều lượng này không làm sai lệch nhiều nguy cơ Dự đoán không ổn của double test trên lâm sàng. quy chế bệnh học của sự biến đổi này vẫn chưa được lý giải do chữa trị ART hay do sức khoẻ nhiễm AIDS hình thành. Giả thuyết được đề cập nhiều nhất là HIV gây thương tổn bánh nhau làm đổi thay chế tiết nồng độ PAPP - A và free b - hCG.

Giả thuyết thứ hai là ART làm thương tổn trophoblast và làm tăng vận chuyển AFP qua nhau thai gây nên biến động khả năng lệch bội và nguy cơ Chẩn đoán nguy cơ khiếm khuyết ống tâm thần khi giám sát ở tam cá nguyệt II.

Đây là một vài thông cáo nên làm lúc giải đáp cho thai phụ. lúc chỉ dựa vào NT , có khả năng Chẩn đoán cao nhất đến 78% hoàn cảnh trisomy 28 , nếu NT đã được dẫn chứng không dao động ở nhóm không nhiễm AIDS và nhóm nhiễm HIV có hay không điều trị ART , giá chữa của một số liều lượng nội tiết này làm cho khẳng định thêm khả năng bất bình thường ở bà mẹ thai kì khi NT tăng so với tuổi thai.

Kết Luận

Tóm lại , với một số chứng cứ hiện có cho rằng vẫn phải thực hành giám sát khả năng không bình thường nhiễm sắc thể bằng một vài xét nghiệm hiện có cho bà mẹ dương tính AIDS như những sản phụ thông thường và tự tin vào giá trị tiên Đoán của một số hiệu quả đó.

Trong sự nghiệp , những kỹ thuật tích cực hơn như Đoán di truyền tiền làm tổ (PGD) có khả năng thực hành phổ biến khiến cho một số bà mẹ nhiễm HIV hạn chế khỏi tác hại lây lan cho con mình bằng một số thủ thuật xâm lấn.

một bà mẹ nhiễm AIDS sẽ đối đầu với lo âu và lo ngại nhiều hơn so với bình thường. Với một số Quy trình tiến đáng kể trong điều trị và dự phòng , có thể chứng minh rằng bà bầu nhiễm HIV/AIDS hoàn toàn có thể cho ra đời một đứa bé bình thường và mạnh mẽ nếu được giải đáp , kiểm tra và điều trị đúng mức.

Nâng đỡ tinh thần là 1 trong những Quy trình thiết yếu trong tham vấn bà mẹ bên cạnh một số xét nghiệm và Quy trình thường quy trong quan sát có bầu.
  
tu van

Next
Bài đăng Mới hơn
Previous
This is the last post.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Các Bệnh Hậu Môn © 2016. All Rights Reserved.
Top